Năm 2004, một trong những khách hàng quan trọng của chúng tôi, một công ty liên doanh sản xuất hàng tiêu dùng gặp phải một số trục trặc trong việc vận hành dây chuyền sản xuất khiến cho một số sản phẩm bị lỗi. Vài ngày sau khi xảy ra sự cố, một người tự xưng là phóng viên của báo Nhân Dân gọi điện cho Phó tổng giám đốc của công ty.

Ông ta tuyên bố đã nắm được toàn bộ sự việc và sẽ khiến cho công ty phá sản bằng cách viết trên báo Đảng về sự việc này. Ông ta đòi 500 triệu- một số tiền rất lớn vào thời điểm đó-để đổi lấy sự im lặng. Tổng giám đốc của công ty, một người Thụy Sỹ, nói thẳng với chúng tôi khi chúng tôi đề nghị tiếp xúc với người đang đe dọa. “Chúng tôi không thỏa thuận với những kẻ tống tiền. Dù cho công ty có sạt nghiệp, chúng tôi cũng phải đưa hắn ra ngoài ánh sáng”- Ông nói.

number one

Công ty thông báo sự việc cho cơ quan công an, người đề nghị chúng tôi tiếp tục làm ra vẻ đàm phán để họ có thể bắt quả tang đối tượng. Người đàn ông này hẹn Phó Tổng giám đốc của công ty tới trụ sở tiếp dân của báo Nhân Dân để đưa tiền (“tôi lấy tiền này cho các cháu mồ côi, chứ không phải cho tôi” - ông ta nói). Khi tới trụ sở tiếp dân, chúng tôi gọi điện thì ông ta từ ngoài đường đi vào và đề nghị chúng tôi ra một quán cà phê gần đó để trao tiền (“chứ ở đây không tiện lắm”). Không cần phải nói thêm là ông ta đã bị cơ quan công an bắt giữ ngay khi nhận số tiền 500 triệu, và ông ta cũng không hề là phóng viên của báo Nhân Dân như ông ta tự nhận, mà chỉ là cộng tác viên cho một số tờ báo nhỏ. Người đàn ông này sau đó đã bị kết án và phải vào tù.

Mặc dù không có đầy đủ thông tin về vụ việc, nhưng câu chuyện “con ruồi trong chai nước ngọt” những ngày vừa qua gợi lại cho tôi ký ức về sự việc mười một năm trước. Trong rất nhiều tranh luận và buộc tội những ngày qua, hầu như đều mọi người bỏ qua hành động tội phạm của người đã bị cảnh sát điều tra bắt giữ. Câu hỏi chai nước đó thực sự có ruồi hay không hay do anh ta bỏ vào còn đang bỏ ngỏ chờ kết luận của công an điều tra, nhưng ngay cả trường hợp trong chai nước ngọt có ruồi đi chăng nữa thì anh ta đã làm gì? Thay vì đưa vấn đề ra báo chí, công luận, kiện lên tòa án, người tiêu dùng này đã “mặc cả” với Tân Hiệp Phát cái giá của sự im lặng của mình.

“Chúng tôi không thỏa thuận với những kẻ tống tiền. Dù cho công ty có sạt nghiệp, chúng tôi cũng phải đưa hắn ra ngoài ánh sáng”
Tôi rất muốn đặt câu hỏi với những người đang bảo vệ anh ta, nếu như Tân Hiệp Phát “khôn ngoan” như nhiều người đề nghị, đàm phán với anh ta và mua sự im lặng với giá 500 triệu hay một tỷ đồng, thì điều gì sẽ xảy ra? Hàng triệu người tiêu dùng Việt Nam sẽ tiếp tục vui vẻ uống những chai nước từ một dây chuyền sản xuất có vấn đề về mặt vệ sinh an toàn thực phẩm, anh nông dân có một khoản tiền lớn để đổi đời, Tân Hiệp Phát thở phào vì “tai qua nạn khỏi”, đó phải chăng là cái kết mà rất nhiều người khuyên Tân Hiệp Phát nên xử lý?

Mấy ngày trước đây, học viện Sage và tổ chức Hướng tới Minh bạch đã lựa chọn được đội chiến thắng trong cuộc thi “Sống liêm chính” (Intergrity Me). Đội chiến thắng là đội đã xây dựng một “Hành trình Liêm chính” tới các bạn trẻ, nhấn mạnh họ tin vào sự liêm chính của mỗi một con người. “Liêm chính là làm điều đúng ngay cả khi điều đó không có lợi cho bạn” - một bạn trẻ nói như vậy. Nếu như anh Minh, người tiêu dùng kia, thực hành cách sống liêm chính, “đói cho sạch, rách cho thơm”, công chúng đã có thể biết được một sự thật cần cảnh báo, mà anh thì đã không bước chân vào vòng lao lý. Trong khi ủng hộ quyền của người tiêu dùng, chúng ta cũng cần phải cảnh báo họ việc lạm dụng quyền đó để tống tiền hay trục lợi cá nhân sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng đối với họ.

Chị Hoàng Thị Mai Hương có kể lại câu chuyện về cuộc khủng hoảng của nhãn thuốc cảm Tylenon, một cuộc khủng hoảng truyền thông được xử lý một cách “kinh điển”.

“Một ngày năm 1982 tại Chicago có 5 người chết sau khi uống thuốc giảm đau Tylenol . Nhà sản xuất là công ty dược Johnsonnum11 &Johnson ngay lập tức dừng quảng cáo thuốc này, thông báo cho các hiệu thuốc và công chúng thông qua báo chí để họ không mua nữa. Trong lúc công ty đang phối hợp với cảnh sát điều tra nguyên nhân, thì một người nặc danh viết thư tới công ty tự nhận chính gã đã tiêm thạch tín vào một số lọ thuốc Tylenol và bỏ lại vào các cửa hàng bất kỳ có bán thuốc này (không kê đơn nên bán cả ở siêu thị) . Gã nói nếu công ty trả cho gã 1 triệu đô, gã sẽ cho biết địa chỉ các cửa hàng bị nhiễm độc, và chấm dứt việc này. Nếu không ,J&J sẽ sụp .Tylenol là sản phẩm lời nhất, uy tín nhất và bán chạy nhất của J&J. Ngay lập tức, công ty thu hồi toàn bộ hơn 31 triệu lọ thuốc đang lưu hành, đề nghị người tiêu dùng đã mua thuốc dạng nhộng này đem lại đổi lấy dạng viên cứng. Chi phí chiến dịch này từ truyền thông đến vận hành mất hơn 100 triệu đô, chưa kể chi phí sản xuất 31 triệu chai thuốc bị thu hồi và tiêu hủy. Cùng lúc J& J tiếp tục đối thoại với gã nọ để cảnh sát có thể có đầu mối điều tra, và gã đã bị tóm. Dù gã nói gã không phải là người bỏ thuốc độc gây ra 5 cái chết kia , chỉ mượn gió bẻ măng ăn theo tống tiền doanh nghiệp thôi và công tố cũng không tìm ra được bằng chứng gã là người bỏ thuốc độc, nhưng gã vẫn bị tù 20 năm vì tội tống tiền."

Sau đó, có nhiều copy cat đã bỏ thuốc độc vào một số loại thuốc không kê đơn khác để tống tiền nhưng không doanh nghiệp nào thỏa hiệp cả. Còn J&J thì ngay sau khủng hoảng đã thay đổi mẫu mã, làm cái nắp lọ có 3 lượt bảo vệ, và cuối cùng thì thay luôn viên con nhộng bằng viên cứng (rất khó phơi nhiễm) . Sau 1 năm cổ phiểu của công ty lại tăng, sau 5 năm lấy lại toàn bột thị phần thuốc giảm đau và hiện nay Tylenol vẫn là khuôn vàng thước ngọc của thuốc giảm đau không kê đơn, và cả của cách xử lý khủng hoảng.

Nước Mỹ chưa có ai lên tiếng bênh vực gã "ăn theo" nọ !”

(còn tiếp)

Tác giả: Nguyễn Thanh Sơn

Theo Brands Việt Nam

C. V. Ramanan

"Không thể có một cách làm đúng cho một hành động sai."

User Menu